Danh mục: Thư viện quảng bá

  • Triển vọng về một mô hình phát triển nông nghiệp gắn với du lịch sinh thái

    Triển vọng về một mô hình phát triển nông nghiệp gắn với du lịch sinh thái

    Phát triển du lịch sinh thái gắn với nông nghiệp không phải là một khái niệm mới mà đã phát triển khá hiệu quả ở trong và ngoài nước. Tuy nhiên, đối với tỉnh Ninh Bình loại hình này chưa thực sự khai thác hết thế mạnh và tiềm năng vốn có của địa phương. Với mong muốn sẽ mang lại một sản phẩm du lịch sinh thái bền vững gắn với phát triển nông nghiệp điển hình của Ninh Bình, Khu du lịch sinh thái Thung Nham đang từng bước kiến tạo sản phẩm du lịch đặc trưng.

    “Thung” là thung lũng – khu đất thấp được núi non trùng điệp bao quanh. “Nham” chỉ những vách đá dựng đứng, hiểm trở làm nên bức tường thành vững chãi chở che, bao bọc. Kết hợp hài hòa giữa vẻ hùng vĩ và cảnh sắc thiên nhiên nên thơ, Thung Nham được ví như một thiên đường du lịch sinh thái, một điểm dừng chân yêu thích của những người yêu thiên nhiên đã chọn lựa Ninh Bình làm đích đến.

    Nằm trong Quần thể danh thắng Tràng An, nơi đây không chỉ là thung lũng xanh ngát bốn mùa cây cỏ, hoa trái, chim muông tụ họp, xen lẫn là nhiều khoảng đất bằng phẳng có thể cắm trại, làm khu vui chơi… mà còn nổi tiếng là vườn chim lớn nhất miền Bắc, nơi sinh sống của hơn 5.000 tổ chim các loại, thuộc 46 loài như vạc, cò, diệc, mòng két, chích chòe lửa… và những loại chim quý như hồng hạc hay phượng hoàng được ghi vào sách đỏ.

    Thung Nham cũng là địa điểm lý tưởng dành cho hội bạn bè, gia đình. Tại đây, du khách có thể lênh đênh bằng con thuyền nhỏ trôi hững hờ trên sông, chiêm ngưỡng thiên nhiên hùng vĩ và động – thực vật hai bên bờ. Hay bạn lựa chọn thú vui câu cá để thư giãn, lấy lại năng lượng sau những ngày làm việc vất vả.

    Mong muốn tạo nên một sản phẩm du lịch hoàn hảo, khép kín, an toàn và thân thiện, Công ty cổ phần dịch vụ và thương mại du lịch Doanh Sinh đã phát huy tiềm năng vốn có của thung lũng để phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với du lịch sinh thái bền vững.

    Bà Cao Thị Hòa, Giám đốc điều hành Khu du lịch sinh thái Thung Nham cho biết: Với điều kiện đa dạng về hệ sinh thái, tự nhiên và văn hóa, những năm gần đây Khu du lịch sinh thái Thung Nham đã kết hợp hài hòa giữa sản xuất nông nghiệp với phát triển du lịch, bước đầu đã mang lại hiệu quả khả quan góp phần phát triển du lịch Ninh Bình, đồng thời nâng cao năng lực sản xuất cũng như đời sống của người dân.

    Ngay từ khi đi vào khai thác du lịch ở Thung Nham, Công ty cổ phần dịch vụ và thương mại du lịch Doanh Sinh đã xác định phát triển du lịch sinh thái bền vững. Điều này có nghĩa là làm du lịch có trách nhiệm, giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực và có tác động tích cực nhằm bảo vệ môi trường, mang lại lợi ích về sản phẩm du lịch sinh thái, bảo vệ sức khỏe con người. Trong đó không ngoại trừ việc đầu tư và quan tâm đến sản phẩm nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ.

    Phát huy lợi thế được thiên nhiên ưu đãi, bên cạnh những diện tích cần bảo tồn nghiêm ngặt, Khu du lịch sinh thái Thung Nham đã quy hoạch diện tích để canh tác, chăn nuôi các sản phẩm nông nghiệp như: trồng cây lâm, nông nghiệp, hoa màu hoặc nuôi gia cầm, gia súc theo hình thức chăn thả gắn với tự nhiên, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp sạch, an toàn với sức khỏe con người.

    Chị Tal shlomo – du khách Israel cho biết: Tôi rất thích cảnh quan nơi đây vì có sự kết hợp hài hòa giữa cảnh quan tự nhiên và nhân tạo mà không làm mất đi sự hùng vĩ vốn có của núi rừng. Đặc biêt, đến với Khu du lịch sinh thái Thung Nham, du khách có thể chiêm ngưỡng cảnh quan tự nhiên và tham gia lao động sản xuất cùng người dân địa phương.

    Phát triển du lịch gắn với nông nghiệp là định hướng lớn mà tỉnh Ninh Bình sẽ đẩy mạnh thực hiện trong giai đoạn này. Tuy nhiên, hiện nay trên địa bàn tỉnh mới chỉ dừng lại ở những mô hình nhỏ và để trở thành sản phẩm du lịch chủ lực còn rất nhiều khó khăn. Trong khi đó, giá trị nông nghiệp bản địa, văn hóa truyền thống bản sắc, sự tinh tế, chuyên nghiệp chưa được nghiên cứu và ứng dụng bài bản để tạo ra các sản phẩm chất lượng cao phục vụ du khách.

    Trong bối cảnh đó, Khu du lịch sinh thái Thung Nham mong muốn tạo nên một mô hình du lịch sinh thái nghỉ dưỡng hoàn hảo, khi du khách đến đây không chỉ ngắm cảnh, vui chơi mà còn được thưởng thức các món ăn do chính người dân bản địa sản xuất, canh tác trong khu du lịch. Hiện, Công ty Doanh Sinh dành diện tích đất trồng, khu vực chăn nuôi đảm bảo các nguyên tắc: Đủ rộng theo quy mô, vùng nguyên liệu giàu dược tính; khu vực cách biệt với hoạt động kinh doanh dịch vụ và tận dụng triệt để nguồn gốc thức ăn từ tự nhiên.

    Việc sản xuất nông nghiệp được doanh nghiệp thực hiện nghiêm ngặt theo mô hình khép kín từ khâu lựa chọn giống, chọn vùng nguyên có nhiều thế mạnh phát huy tối đa chất lượng sản phẩm; áp dụng công nghệ tiên tiến trong khâu đóng gói, hình ảnh; phát triển thị trường và chủ yếu là sản phẩm du lịch mang tính chất đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng.

    Để phát triển du lịch sinh thái gắn với nông nghiệp bền vững, hiện nay doanh nghiệp đã triển khai phát triển sản phẩm nông nghiệp hoàn chỉnh đầu tiên đó là Trà Sơn Kim Cúc. Cũng theo bà Cao Thị Hòa, Sản phẩm trà Sơn Kim Cúc mặc dù đã được Công ty sử dụng để phục vụ du khách đến với Thung Nham hàng chục năm nay, nhận được rất nhiều phản hồi tích cực song mới chỉ mang tính chất “nội bộ”.

    Tuy nhiên, với chiến lược phát triển du lịch sinh thái bền vững gắn với nông nghiệp, Công ty đang tập trung xây dựng các sản phẩm nông nghiệp hoàn thiện với quy trình khép kín từ khâu chọn giống, chăm sóc, thu hoạch, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đây sẽ là sản phẩm đầu tiên trong chuỗi các sản phẩm nông nghiệp mà Thung Nham muốn phát triển.

    Đặc biệt, để nâng cao giá trị sản phẩm, hiện nay Công ty CP dịch vụ và thương mại du lịch Doanh Sinh đang xây dựng trà Sơn Kim Cúc là sản phẩm OCOP nhằm mục tiêu kiểm soát vùng nguyên liệu tại chỗ, tạo nền tảng để nâng cao giá trị, thương hiệu sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Mặt khác, phần “then chốt” trong thúc đẩy phát triển mạnh mẽ sản phẩm OCOP trà Sơn Kim Cúc là Công ty muốn khẳng định thương hiệu các sản phẩm nông nghiệp của Khu du lịch Thung Nham, từ đó đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tìm đầu ra cho sản phẩm phát triển các điểm bán hàng và quảng bá, liên kết tiêu thụ sản phẩm OCOP, tạo hệ thống phân phối hiệu quả.

    Để đẩy mạnh việc phát triển loại hình du lịch sinh thái nghỉ dưỡng kết hợp với nông nghiệp rất cần cái “bắt tay” giữa hai ngành Du lịch và Nông nghiệp. Điều này được kỳ vọng không chỉ bổ sung thêm các sản phẩm du lịch mới cho tỉnh mà còn góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, thay đổi diện mạo nông nghiệp, nông thôn, là nền tảng vững chắc trong phát triển kinh tế-xã hội. Đây cũng sẽ là cơ sở quan trọng để Khu du lịch sinh thái Thung Nham thúc đẩy hoàn thiện mô hình du lịch sinh thái bền vững gắn với đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp hoàn thiện, theo chuỗi giá trị.

  • Động lực cho đầu tư chăn nuôi

    Động lực cho đầu tư chăn nuôi

    Dabaco Quảng Ninh (phường Bình Khê) do Công ty CP Tập đoàn Dabaco Việt Nam làm chủ đầu tư đang là dự án có tiến độ thực hiện các thủ tục đầu tư nhanh nhất. Trong vòng 4 tháng qua, đơn vị này đã hoàn thành các khâu nghiên cứu, lựa chọn địa điểm; thủ tục thuê đất; đánh giá tác động môi trường (DTM); thuyết minh công nghệ nuôi và xử lý chất thải… đồng thời sẵn sàng về thiết bị, vật tư, con giống, thức ăn để có thể khởi công xây dựng chuồng trại vào cuối năm 2025 và đủ điều kiện cho ra những lứa lợn đầu tiên vào năm 2026.

    Quy mô sản xuất của Dabaco theo báo cáo của đơn vị là 3.600 con lợn nái và với số lợn nái này mỗi năm cho ra đời từ 7.000-10.000 con lợn giống. Toàn bộ số lợn giống được nuôi thành lợn thịt cung ứng cho thị trường trong tỉnh và TP Hà Nội theo kênh phân phối của Công ty.

    Cùng với dự án Dabaco Quảng Ninh, còn có các dự án đầu tư chăn nuôi lợn khác đang đẩy mạnh tiến độ đầu tư như dự án chăn nuôi lợn công nghệ cao mở rộng (giai đoạn 2) tại xã Ba Chẽ của Công ty CP Khai thác khoáng sản Thiên Thuận Tường, các dự án chăn nuôi lợn công nghệ cao NHP tại xã Đông Ngũ của Công ty CP chăn nuôi NHP Đông Hải… Các dự án này đều có quy mô đầu tư lớn, dao động khoảng 2.400-3.000 con lợn nái/năm, tổng đàn (cả nái, giống, thương phẩm) từ 30.000-70.000 con lợn/năm. Ông Trần Hoà, Giám đốc Công ty CP Khai thác khoáng sản Thiên Thuận Tường cho biết: Quy mô giai đoạn 2 của dự án chăn nuôi lợn công nghệ cao tại xã Ba Chẽ sẽ là 6.000 con lợn thương phẩm/năm.

    Cùng các dự án đang đầu tư kể trên, đầu năm 2025, dự án chăn nuôi lợn công nghệ cao của Công ty CP Chăn nuôi Greentech (xã Đường Hoa) đã chính thức đi vào vận hành. Quy mô dự án này là hơn 45ha, với 5.000 con lợn nái, 20.000 con lợn giống, 40.000 con lợn thịt (2-3 lứa/năm). Đây được coi là dự án chăn nuôi lợn rất hiện đại, với vật liệu khung chuồng, thiết bị chăn nuôi đa số nhập khẩu, hệ thống cho ăn, làm mát tự động, hệ thống xử lý chất thải đảm bảo; quy trình nuôi khép kín, chủ động từ khâu lợn giống đến lợn thương phẩm và sản phẩm từ lợn. Đặc biệt chiến lược phát triển lâu dài của Công ty CP Chăn nuôi Greentech là cung ứng lợn nguyên con, sản phẩm chế biến từ lợn cho thị trường nội địa và xuất khẩu thịt mảnh sang thị trường Trung Quốc.

    Bà Chu Thị Thu Thuỷ, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Quảng Ninh cho biết: Cái thuận của việc đầu tư các dự án chăn nuôi, bao gồm chăn nuôi lợn trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thời điểm này là các địa phương đều đã hoàn thành quy hoạch thành phần, được tích hợp vào quy hoạch chung, vì vậy địa điểm nghiên cứu đầu tư của các đơn vị coi như đã được chấp thuận, không phải bổ sung, chỉnh sửa quy hoạch. Các đơn vị chức năng tỉnh cũng hỗ trợ, đồng hành chặt chẽ với các chủ đầu tư trong các hoạt động đánh giá tác động môi trường, hay thủ tục thuê đất, thuê rừng, thẩm định công nghệ nuôi, công nghệ xử lý chất thải… Đó là những động lực để đẩy mạnh tiến độ triển khai các dự án.

    Được biết, nhiều năm qua tổng đàn lợn của Quảng Ninh dao động trong khoảng trên dưới 300.000 con, đáp ứng 40% nhu cầu thực tế của tỉnh. Với xu hướng đầu tư vào các dự án chăn nuôi lợn như hiện nay sẽ làm tăng tổng đàn lợn trên địa bàn, chủ động được về nguồn lợn thịt đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của Quảng Ninh là khoảng trên dưới 2.500 con lợn/ngày, đồng thời mở ra hướng xuất khẩu thịt mảnh, làm gia tăng giá trị ngành chăn nuôi.

  • Triển lãm trực tuyến “Chăn nuôi dưới góc nhìn nghệ thuật”

    Triển lãm trực tuyến “Chăn nuôi dưới góc nhìn nghệ thuật”

    Nông thôn là nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều thế hệ nghệ sĩ Việt Nam từ xưa đến nay, trong đó có những vật nuôi thân thương như trâu, bò, lợn, gà. Chúng xuất hiện trong các tác phẩm một cách dung dị, gần gũi. Những tranh gà in trên giấy điệp của những nghệ nhân dân gian Đông Hồ vùng Kinh Bắc được xem là biểu tượng cho sự sung túc, no đủ; tranh lợn đàn với hình vòng xoáy âm dương trên lưng tượng trưng cho sự sinh sôi, nảy nở, cũng như phản ánh quan niệm về giống tốt của người dân xưa…

    Những nghệ sĩ hiện đại ngày nay, dù đã tiếp xúc và chiêm nghiệm những khuynh hướng sáng tác hiện đại của nghệ thuật phương Tây, nhưng trong họ vẫn thấm đẫm một tình yêu quê hương, đất nước, một bản sắc Việt Nam. Những con trâu mải miết cày bừa trên cánh đồng hợp tác xã trong Một buổi cày của Lưu Công Nhân, đàn bò được chăn thả tự do trong tác phẩm Đàn bò Việt Bắc của Sỹ Tốt, cô dân quân mải mê Thái chuối nuôi lợn trong tác phẩm của Trần Văn Cẩn, hay bé gái một tay vuốt ve thân gà, một tay âu yếm cho gà mổ thóc trong Bé cho gà ăn của Nguyễn Phú Cường… tất cả đều phản ánh hơi thở cuộc sống lao động bình dị mà nên thơ của người nông dân Việt Nam.

    Bên cạnh đó, các họa sĩ cũng chuyển tải những thông điệp từ chủ trương, chính sách của nhà nước đối với việc phát triển ngành chăn nuoi, thú y một cách hết sức nhẹ nhàng, dễ hiểu qua các tranh áp phích như: Đưa nhanh mạnh chăn nuôi lên thành ngành chính của Thế Hải hay Hết sức coi trọng công tác tiêm phòng, vệ sinh thú y chủ động phòng chống dịch cho gia súc của Nguyễn Đăng Phú…

    Không những thế, những vật nuôi ấy còn là cảm hứng để các họa sĩ gửi gắm tâm tư, tình cảm, triết lý nhân sinh. Chỉ với hình tượng con trâu to khỏe, quanh năm làm việc trên cánh đồng, đối lập với con chim nhỏ bé, tự do bay bổng trên không trung, họa sĩ Lê Anh Vân đã nâng lên thành triết lý về Tình bạn thủy chung, bình đẳng, không phân biệt.

    Qua cách tiếp cận kết hợp nghệ thuật với khoa học chăn nuôi, triển lãm trực tuyến “Chăn nuôi dưới góc nhìn nghệ thuật” giới thiệu 52 hiện vật lựa chọn từ sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, gồm tranh dân gian và tranh, tượng hiện đại, được trình bày theo 6 chủ đề: (1) “Giống di truyền”; (2) “Sức khỏe vật nuôi”; (3) “Cây thức ăn chăn nuôi”; (4) “Chăn nuôi và môi trường”; (5) “Chăn nuôi và sinh kế”; (6) “Chăn nuôi và đời sống văn hóa”. Từ đó, triển lãm mong muốn mang đến cho công chúng những góc nhìn đa chiều về chăn nuôi và vật nuôi, góp phần nâng cao nhận thức về vai trò của chăn nuôi và thúc đẩy ngành chăn nuôi Việt Nam phát triển bền vững./.

  • Phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong kỷ nguyên số

    Phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong kỷ nguyên số

    Thực trạng thương mại điện tử ở Việt Nam

    Những năm gần đây, thương mại điện tử tại Việt Nam đã khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế số quốc gia. Giai đoạn 2016 – 2020, thương mại điện tử ở Việt Nam duy trì mức tăng trưởng trung bình 24%/năm, đạt doanh thu bán lẻ 11,8 tỷ USD vào năm 2020, chiếm 5,5% tổng doanh thu bán lẻ cả nước. Số lượng người tiêu dùng trực tuyến ước đạt 49 triệu người, với giá trị mua sắm trung bình mỗi người 240 USD. Giai đoạn 2021 – 2024, trước ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch COVID-19, thương mại điện tử ở Việt Nam là lĩnh vực duy nhất ghi nhận mức tăng trưởng hai con số, đạt 18%/năm. Năm 2024, thương mại điện tử của Việt Nam xếp thứ 3 về quy mô thị trường ở khu vực Đông Nam Á với doanh thu đạt 25 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2023. Trong đó, quy mô bán lẻ trực tuyến đạt 17,3 tỷ USD, chiếm khoảng 9% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước. Phần lớn giá trị giao dịch đến từ bốn nhóm ngành hàng chủ lực: thời trang và phụ kiện, FMCG (chăm sóc mẹ và bé, thực phẩm đồ uống, chăm sóc nhà cửa, chăm sóc cá nhân, sản phẩm từ sữa), điện gia dụng và công nghệ, sắc đẹp. Doanh thu từ các gian hàng chính hãng trên các sàn thương mại điện tử gia tăng đáng kể. Các thương hiệu uy tín trong thị trường bán lẻ truyền thống nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ người tiêu dùng.Hiện nay, tỷ lệ dân số Việt Nam tham gia thương mại điện tử đạt trên 60%, giá trị mua sắm trung bình khoảng 400 USD/người/năm. Với tỷ trọng chiếm 2/3 giá trị của nền kinh tế số, thương mại điện tử Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế là một trong những kênh bán lẻ quan trọng nhất, với sức mua tiếp tục ghi nhận tăng trưởng hai con số vững chắc. Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử hàng đầu thế giới.

    Thông qua sự phát triển của thương mại điện tử, số lượng website và ứng dụng di động thương mại điện tử bán hàng đã tăng từ 3.470 nền tảng vào năm 2014 lên 53.949 nền tảng vào năm 2024 (tăng khoảng 15,6 lần trong 10 năm). Trong đó, sàn giao dịch thương mại điện tử (marketplace) vẫn chiếm vị trí nổi bật. Các nền tảng thương mại điện tử lớn như Shopee, Lazada, Tiki và Sendo tiếp tục dẫn đầu, chiếm lĩnh phần lớn thị phần nhờ khả năng cung cấp sản phẩm đa dạng, giá cả cạnh tranh và dịch vụ vận chuyển nhanh chóng. Cùng với đó, TikTok Shop nổi lên như một xu hướng mới khi kết hợp giữa yếu tố mạng xã hội và mua sắm trực tuyến. Tổng doanh thu của 5 sàn thương mại điện tử lớn nhất (Shopee, Lazada, TikTok Shop, Tiki và Sendo) trong năm 2024 đạt 318,9 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng 37,36% so với năm 2023. Đồng thời, tổng sản lượng tiêu thụ cũng đạt 3,421 triệu sản phẩm, tăng mạnh 50,76%.

    Sức mua của thị trường duy trì ở mức cao, tuy nhiên, đối với các danh mục sản phẩm cụ thể, nhiều người tiêu dùng vẫn tiếp tục lựa chọn mua sắm trên các cửa hàng điện tử. Nhờ việc sử dụng rộng rãi các phương tiện truyền thông xã hội như Facebook, TikTok, Zalo và Instagram, người tiêu dùng Việt Nam tiếp cận mô hình mua sắm trực tuyến thông qua các bài đăng, quảng cáo hoặc gian hàng ảo trên mạng xã hội, mang lại sự tiện lợi và cá nhân hóa cao. Xu hướng này được dự đoán sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong những năm tới.

    Trong khi đó, mô hình thương mại điện tử xuyên biên giới ngày càng nhận được sự quan tâm của cả người bán hàng lẫn người mua hàng. Thời gian qua, các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam xây dựng các nền tảng thương mại điện tử B2B, kết nối với các nền tảng thương mại điện tử lớn của thế giới, như Amazon, Alibaba, Timo… để các sản phẩm, hàng hóa khi lên sàn thương mại điện tử của Việt Nam sẽ tương ứng xuất hiện trên các nền tảng thương mại điện tử lớn của thế giới, kết nối người mua trực tiếp với người bán cũng như nhà sản xuất. Từ năm 2019 đến 2023, số lượng sản phẩm do doanh nghiệp Việt bán trên Amazon tăng hơn 300%. Điều này cho thấy sức hấp dẫn của hàng Việt Nam đối với người tiêu dùng quốc tế cũng như tiềm năng to lớn mà thương mại điện tử xuyên biên giới mang lại.

    Với sự hỗ trợ từ các chính sách của Chính phủ và các hiệp định thương mại tự do như CPTPP, EVFTA và RCEP,… doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm dễ dàng hơn, cạnh tranh tốt hơn, giảm bớt rủi ro khi tham gia vào thương mại điện tử xuyên biên giới. Có thể khẳng định, thương mại điện tử xuyên biên giới tạo ra bệ phóng cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần, quy mô để kinh doanh và xây dựng thương hiệu toàn cầu thành công. Việc tận dụng nền tảng thương mại điện tử quốc tế sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam không chỉ phát triển trong nước mà còn vươn ra thế giới, tạo ra nhiều cơ hội và khả năng tăng trưởng bền vững. Các điểm đến xuất khẩu chính của Việt Nam thông qua các nền tảng trực tuyến bao gồm các thị trường lớn như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, cũng như các thị trường mới nổi ở Anh, châu Âu và Đông Á.

    Cơ hội và thách thức cho phát triển thương mại điện tử của Việt Nam

    Về cơ hội:

    Bên cạnh cơ hội từ những chính sách của Chính phủ góp phần thúc đẩy kinh tế số, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại điện tử, Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển lĩnh vực này.

    Trong những năm gần đây, thị phần của thương mại điện tử trong tổng doanh thu bán lẻ của Việt Nam tăng dần qua các năm, đặc biệt kể từ sau COVID-19. Điều này cho thấy thương mại điện tử đang lấy dần thị phần của thương mại truyền thống, đặc biệt là ở các thành phố lớn và đối với các mặt hàng như thời trang, làm đẹp, đồ gia dụng… Theo tính toán của Bộ Thông tin và Truyền thông, Việt Nam hiện có khoảng 1,4 triệu cửa hàng tạp hóa và hơn 9.000 chợ truyền thống, chiếm 75% thị phần. Các cửa hàng tạp hóa và chợ truyền thống đang đáp ứng đến 85% nhu cầu tiêu dùng của người dân, nhưng tốc độ tăng trưởng của thương mại điện tử từ 35-45% mỗi năm đang nhanh chóng tái định hình thói quen tiêu dùng.

    Theo nghiên cứu của Datareportal và Wearesocial (nền tảng dữ liệu toàn cầu và công ty toàn cầu về sáng tạo truyền thông), tính đến đầu năm 2024, có 78,44 triệu người sử dụng internet tại Việt Nam, tỷ lệ tiếp cận internet đạt 79,1% và dự kiến còn tiếp tục tăng qua các năm. Cùng với gần 100% kết nối di động, thương mại điện tử đã có thể mở rộng, tiếp cận cả khu vực thành thị và nông thôn. Trong khi đó, thu nhập bình quân đầu người được dự báo sẽ tăng trưởng trung bình 7,0%/năm trong giai đoạn 2023 – 2030, mức khá cao trong khu vực và trên thế giới.

    Thị trường thanh toán trực tuyến đạt 149 tỷ USD trong năm 2024, tăng 18% so với năm trước và dự kiến sẽ đạt 350 tỷ USD vào năm 2030(1). Sự gia tăng của các nền tảng thanh toán kỹ thuật số tạo điều kiện cho các giao dịch diễn ra thuận lợi hơn, giúp khách hàng mua sắm trực tuyến dễ dàng hơn. Sự chuyển dịch sang thanh toán không dùng tiền mặt là một phần không thể thiếu trong sự tăng trưởng của thương mại điện tử, cung cấp các tùy chọn an toàn và hiệu quả cho người tiêu dùng.

    Với số lượng dân số am hiểu công nghệ và sử dụng internet tăng nhanh, Việt Nam không chỉ bắt kịp với quá trình chuyển đổi số, mà còn đang nổi lên như một quốc gia dẫn đầu trong nền kinh tế internet của Đông Nam Á. Vị trí chiến lược của Việt Nam và việc tham gia vào các hiệp định thương mại tự do như CPTPP, EVFTA và RCEP định vị Việt Nam là trung tâm thương mại điện tử xuyên biên giới, qua đó tăng cường hơn nữa các cơ hội xuất khẩu. Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế khu vực và thế giới, lại có thế mạnh ở các ngành như dệt may, da giày, gạo, nông sản…, nên dư địa, tiềm năng về thương mại điện tử xuyên biên giới rất lớn, đặc biệt với hình thức doanh nghiệp tới người tiêu dùng (B2C). Sự tăng trưởng của mô hình này không chỉ giúp nâng cao doanh thu xuất khẩu mà còn mở ra cơ hội quảng bá thương hiệu Việt trên toàn cầu. Ước tính, quy mô xuất khẩu thương mại điện tử xuyên biên giới năm 2027 sẽ đạt hơn 13 tỷ USD(2)

    Việc tích hợp các nền tảng thương mại xã hội như TikTok Shop và Shopee đang định hình lại cách các doanh nghiệp tương tác với nhóm nhân khẩu học trẻ tuổi, am hiểu công nghệ. Việt Nam đặt mục tiêu trở thành trung tâm thương mại điện tử hàng đầu Đông Nam Á, trở thành điểm đến hấp dẫn cho các doanh nghiệp thương mại điện tử phát triển mạnh. Theo đánh giá chung của Google, Temasek, Bain & Company, thời gian tới Việt Nam tiếp tục duy trì tăng trưởng thương mại điện tử với tốc độ trung bình năm ở mức 18 – 20% và quy mô thị trường thương mại điện tử sẽ đạt 63 tỷ USD vào năm 2030, vươn lên đứng thứ 2 ở khu vực Đông Nam Á.

    Về thách thức

    Bên cạnh các cơ hội, hoạt động kinh doanh của thị trường thương mại điện tử Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức khó khăn.

    Thứ nhất, quản lý hoạt động thương mại điện tử ngày càng khó khăn và phức tạp.

    Song hành với quy mô thương mại điện tử ngày càng lớn, quản lý nhà nước về lĩnh vực này càng khó và phức tạp hơn do thiếu khung pháp luật và quy định điều chỉnh riêng biệt. Cơ quan quản lý nhà nước còn gặp khó khăn trong công tác quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh với các nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới. Nhiều nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới chưa được cấp phép hoặc đang trong quá trình cấp phép vẫn thực hiện cung cấp dịch vụ thương mại điện tử tại Việt Nam (như Temu, Shein), bán các sản phẩm, hàng hóa xuyên biên giới vào thị trường Việt Nam với giá cả thấp, gây ảnh hưởng xấu đến thị trường tiêu thụ nội địa, tạo áp lực cạnh tranh với các nền tảng thương mại điện tử nội địa và tác động lớn đến hành vi mua sắm của người tiêu dùng. Chưa có quy định riêng rẽ về các chủ thể tham gia livestream, các trường thông tin tối thiểu phải cung cấp cho người xem, trình độ chuyên môn của người thực hiện livestreams, định danh chủ tài khoản và những vấn đề về kiểm soát thông tin trong quá trình phát livestreams…

    Trong khi thương mại điện tử phát triển với tốc độ nhanh và quy mô tăng dần trong giai đoạn 2016 – 2024, vấn đề quản lý nhà nước về thuế ngày càng nổi lên gay gắt. Theo đánh giá của Bộ Tài chính, tổng số thu thuế từ hoạt động kinh doanh thương mại điện tử của doanh nghiệp, hộ kinh doanh trong nước và nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam chỉ chiếm khoảng 20% quy mô doanh thu thị trường thương mại điện tử. Nhiều đối tượng kinh doanh chưa thực hiện việc kê khai, nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đối với doanh thu từ hoạt động thương mại điện tử.

    Bên cạnh đó, vấn đề kiểm soát hàng giả, hàng nhái, hàng cấm, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng kém chất lượng… đặt ra nhiều vấn đề cho cơ quan quản lý nhà nước. Trong năm 2024, nhiều trường hợp có dấu hiệu lợi dụng thương mại điện tử để kinh doanh hàng hóa nhập lậu với quy mô và số lượng lớn các mặt hàng mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, đồ gia dụng, giầy dép…, hàng triệu đơn hàng đã bán được phát hiện.

    Thứ hai, hệ thống logistics chưa đồng bộ. 

    Logistics tuy đã có những cải thiện ở các khu vực thành thị, song việc giao hàng đến các vùng xa xôi và nông thôn vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển thương mại điện tử do kết cấu hạ tầng giao thông và kết cấu hạ tầng kỹ thuật số chưa phát triển. Hạn chế này ảnh hưởng đến thời gian giao hàng và làm tăng chi phí hoạt động, cản trở việc mở rộng thương mại điện tử ở các khu vực này. Chỉ số đo lường hiệu suất logistics (Logistics Performance Index – LPI) của Việt Nam còn ở mức thấp so với các nền kinh tế phát triển nhất Đông Nam Á.

    Thứ ba, phương thức thanh toán tiền mặt vẫn chiếm tỷ lệ cao.

    Hệ thống thanh toán điện tử tại Việt Nam có bước tiến lớn trong những năm qua. Các ví điện tử như MoMo, ZaloPay, ViettelPay và các ứng dụng ngân hàng số ngày càng phổ biến, mang lại sự tiện lợi và an toàn cho người dùng. Tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt trong thương mại điện tử tăng đáng kể, đặc biệt tại các đô thị lớn. Tuy nhiên, phương thức thanh toán tiền mặt và thanh toán khi nhận hàng (COD) vẫn chiếm tỷ lệ cao, đặc biệt tại khu vực nông thôn. Điều này phản ánh tâm lý e ngại và thiếu niềm tin vào các phương thức thanh toán điện tử của một bộ phận người tiêu dùng. Đây là thách thức lớn cần được giải quyết thông qua việc nâng cao nhận thức và tăng cường các biện pháp bảo mật.

    Thứ tư, thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực thương mại điện tử. Theo khảo sát của AccessTrade (mạng lưới tiếp thị liên kết của Nhật Bản) đối với 200 doanh nghiệp vừa và nhỏ, 95% số người được hỏi cho biết họ gặp khó khăn do thiếu lao động có tay nghề. Các vị trí việc làm có nhu cầu cao nhất bao gồm nhà phát triển phần mềm thương mại điện tử (67%), chuyên gia tiếp thị kỹ thuật số (63%), chuyên gia chuỗi cung ứng và hậu cần (62%) và đại diện dịch vụ khách hàng đa ngôn ngữ (49%). Sự thiếu hụt này ảnh hưởng đáng kể đến khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động và duy trì tăng trưởng của các doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại điện tử.

    Thứ năm, tác động tiêu cực tới môi trường.

    Thương mại điện tử tăng trưởng nhanh bộc lộ nhiều yếu tố không bền vững, tác động xấu tới môi trường, nhất là vấn đề rác thải nhựa. Theo Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam (VECOM, sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử kéo theo nhiều tác hại môi trường, như phát thải trong đóng gói, hoàn thiện đơn hàng và đặt đồ ăn trực tuyến. Năm 2023, hoạt động kinh doanh trực tuyến và giao đồ ăn của Việt Nam vượt 20 tỷ USD. Ước tính, lĩnh vực này tiêu thụ tới 332 nghìn tấn bao bì, trong đó 171 nghìn tấn là bao bì nhựa, chủ yếu là loại dùng một lần. Người tiêu dùng trực tuyến ngày càng lo ngại về tác động môi trường của thương mại điện tử. Tuy nhiên, sự lựa chọn các giải pháp thân thiện môi trường hiện nay còn hạn chế, chủ yếu do người tiêu dùng phải chi trả thêm chi phí.

    Giải pháp phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam thời gian tới

    Nằm trong khu vực được đánh giá là phát triển năng động nhất về thương mại điện tử trên thế giới, Việt Nam có cả những cơ hội và thách thức. Để phát triển thương mại điện tử trong thời gian tới, Việt Nam chú trọng một số giải pháp sau:

    Thứ nhất, nhanh chóng hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế, chính sách nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển thương mại điện tử. Hành lang pháp lý và cơ chế, chính sách đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo dựng môi trường thuận lợi cho sự phát triển thương mại điện tử. Việt Nam cần sớm xây dựng Luật Thương mại điện tử nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thương mại điện tử; tạo điều kiện cho thương mại điện tử phát triển bền vững, làm động lực cho sự phát triển của nền kinh tế số. Rà soát, đánh giá toàn diện lại cơ chế, chính sách, khung pháp luật về thương mại điện tử. Qua đó, tập trung xây dựng, bổ sung, sửa đổi và ban hành mới các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật theo hướng tạo điều kiện, khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động ứng dụng thương mại điện tử và các mô hình kinh doanh mới trên nền tảng công nghệ số phù hợp với thực tiễn phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam. Tăng cường phối hợp giữa cơ quan quản lý thương mại điện tử và cơ quan thuế để nâng cao hiệu quả quản lý, đồng thời tăng cường kiểm soát, xác thực thông tin của thương nhân, tổ chức kinh doanh và người nộp thuế.

    Thứ haiphát triển hệ thống logicstis đồng bộ. Thị trường bán lẻ và xu hướng thương mại điện tử ngày càng phát triển, cùng với nhu cầu thay đổi của người tiêu dùng, đặc biệt là các yêu cầu về dịch vụ tức thời và nhanh chóng, sẽ tiếp tục mang lại cơ hội phát triển to lớn cho lĩnh vực hậu cần từ thành thị đến nông thôn. Để bắt kịp với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường, bên cạnh việc tăng đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng, Nhà nước cần tiếp tục đề ra các chính sách khuyến khích và hỗ trợ các nhà bán lẻ và công ty hậu cần nâng cao năng lực hậu cần thông minh và mở rộng mạng lưới với sự hỗ trợ của các công nghệ tiên tiến. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy lĩnh vực bưu chính phát triển làm hạ tầng chuyển phát và logistics cho thương mại điện tử. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bưu chính đáp ứng sự phát triển của thị trường thông qua việc rà soát, tháo gỡ khó khăn, rào cản cho doanh nghiệp; xây dựng định hướng, chiến lược để lĩnh vực bưu chính tiếp tục phát triển nhanh và bền vững.

    Thứ ba, bảo đảm an toàn trong giao dịch thương mại điện tử. Thương mại điện tử có nhiều tác động tích cực nhưng cũng dễ bị tin tặc phát tán virus, tấn công vào các website; phát tán thư điện tử, tin nhắn rác; đánh cắp tiền từ các thẻ ATM… Mặt khác, qua internet xuất hiện những giao dịch phi pháp như: ma túy, buôn lậu, bán hàng giả… do vậy, cần có cơ chế kiểm soát và phát hiện các hoạt động vi phạm. Trong đó, cần yêu cầu các sàn giao dịch thương mại điện tử tăng cường quy trình kiểm soát chất lượng sản phẩm, có biện pháp ngăn chặn, xử phạt với các doanh nghiệp bán hàng giả, hàng nhái… Đối với các doanh nghiệp và các sàn thương mại điện tử, cần tăng cường an ninh mạng, bảo mật, an toàn thông tin thanh toán điện tử. Nếu có nền tảng công nghệ tin cậy và ổn định, người dùng dễ tiếp cận hơn, chắc chắn rào cản cho thương mại điện tử sẽ được thu hẹp.

    Thứ tư, đa dạng hóa các kênh bán hàng điện tử. Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào công đoạn nghiên cứu và phát triển để mở rộng nền tảng thương mại điện tử hạt nhân. Tạo môi trường cạnh tranh mạnh mẽ cho hệ sinh thái thương mại điện tử để các doanh nghiệp trong nước tăng đầu tư nghiên cứu tìm hiểu thị trường, nâng cao công nghệ, quản lý nhằm đa dạng hóa và phát triển thương mại điện tử theo chiều sâu. Từ đó, nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của thị trường thương mại điện tử Việt Nam, coi đây là một động lực cho sự phát triển của kinh tế số trong thời gian tới. Khuyến khích doanh nghiệp bên cạnh các kênh bán hàng điện tử quen thuộc cần ứng dụng khoa học và công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, xây dựng thương hiệu và đẩy mạnh xây dựng hệ sinh thái thương mại điện tử riêng với việc tạo lập website làm trung tâm. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, giữ được khách hàng, mà còn giảm phụ thuộc vào sàn thương mại điện tử, đồng thời mở rộng cơ hội kinh doanh ra toàn cầu nhờ công nghệ AI và IT.

    Thứ năm, thúc đẩy thương mại điện tử xuyên biên giới. Việt Nam cần chủ động hợp tác về thương mại điện tử với các quốc gia và các tổ chức quốc tế thúc đẩy thương mại điện tử xuyên biên giới và thương mại phi giấy tờ, đặc biệt phối hợp với các thành viên APEC hoàn thiện và hài hòa hóa khung pháp lý thương mại điện tử của các nền kinh tế APEC tạo thuận lợi cho thương mại điện tử xuyên biên giới trong khu vực; tăng cường xây dựng năng lực để các nền kinh tế APEC có thể hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, siêu nhỏ tham gia vào thị trường thương mại điện tử xuyên biên giới trong khu vực và trên toàn thế giới; giải quyết những vấn đề mới và liên quan đến nhiều bên trong thương mại điện tử xuyên biên giới… Giảm thiểu các thủ tục hành chính thông quan để giảm chi phí và tiết kiệm thời gian để tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch thương mại điện tử xuyên biên giới, hướng tới đưa sản phẩm “Made in Vietnam” ra thị trường quốc tế.

    Thứ sáu, đẩy mạnh đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Muốn phát triển thương mại điện tử, ngoài việc đòi hỏi phải có một đội ngũ chuyên gia tin học giỏi, thường xuyên bắt kịp các thành tựu công nghệ thông tin mới, có khả năng thiết kế các phần mềm đáp ứng các nhu cầu của kinh tế số, mỗi người tham gia thương mại điện tử phải có khả năng sử dụng công nghệ, có thể trao đổi thông tin thành thạo trên mạng, có những hiểu biết cần thiết về thương mại, luật pháp… Phát triển nguồn nhân lực sẽ là giải pháp để phát triển thương mại điện tử ở các địa phương hiệu quả, giúp việc tiếp cận thương mại điện tử bình đẳng hơn giữa các địa phương với các thành phố, đô thị lớn.

    Thứ bảy, hướng tới phát triển thương mại điện tử bền vững. Thương mại điện tử Việt Nam đang trở thành động lực quan trọng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, để phát triển bền vững, cần chú trọng giải quyết các vấn đề môi trường, bảo đảm hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Đây là trách nhiệm chung của doanh nghiệp, người tiêu dùng và các cơ quan quản lý nhà nước. Theo đó, các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại điện tử, kinh tế số, logistics và bưu chính cần nhanh chóng ban hành chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường trong thương mại điện tử. Khuyến khích các doanh nghiệp công bố các sản phẩm thân thiện môi trường trên sàn thương mại điện tử để người tiêu dùng dễ dàng lựa chọn; ứng dụng khoa học, công nghệ và ưu tiên bảo quản sản phẩm thân thiện môi trường; đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của người mua sắm trực tuyến thông qua tổ chức các sự kiện về môi trường có liên quan tới thương mại điện tử./.